Thời kì Phong kiến
Giai đoạn lịch sử
- Nhà Ngô (939–965)
- Nhà Đinh (968–980)
- Nhà Tiền Lê (980–1009)
- Nhà Lý (1009–1225)
- Nhà Trần (1225–1400)
- Nhà Hồ (1400–1407)
- Khởi nghĩa Lam Sơn – Nhà Hậu Lê (1428–1789)
- Nhà Mạc (1527–1592)
- Thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh (1627-1672)
- Nhà Tây Sơn (1778–1802)
- Nhà Nguyễn (1802-1945)
1. Nhà Ngô (939–965)
Hình 1: Ảnh bản đồ Nhà Ngô
Sau
chiến thắng Bạch Đằng 938
Trận sông Bạch Đằng (chữ Hán: 白藤江之戰, Hán-Việt: Bạch Đằng giang
chi Chiến) năm 938 là một trận đánh giữa quân dân do Ngô Quyền lãnh
đạo đánh với quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Kết quả là người Việt
giành thắng lợi lớn nhờ kế sách cắm cọc nhọn dưới lòng sông Bạch
Đằng của Ngô Quyền. Trước sự chiến đấu dũng mãnh của người Việt, quá
nửa quân Nam Hán chết đuối, hoàng tử Nam Hán là Lưu Hoằng Tháo cũng
tử trận. Đây là một trận đánh quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nó
đánh dấu cho việc chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc của Việt Nam.
, âm mưu xâm lược của
Nam Hán
Nam Hán (giản thể: 南汉; phồn thể: 南漢; bính âm: Nánhàn) là một
vương quốc tồn tại từ năm 917 đến năm 971, chủ yếu là trong thời kỳ
Ngũ Đại Thập Quốc (907-960), nằm dọc theo bờ biển phía nam Trung
Quốc. Vương quốc này mở rộng kinh đô ở Hưng Vương Phủ (興王府), ngày
nay là thành phố Quảng Châu. Nam Hán có quan hệ không chỉ với các
vương quốc khác của Trung Quốc mà còn với người Việt (越) phương
nam.
bị đè bẹp. Năm 939,
Ngô Quyền
Ngô Quyền (chữ Hán: 吳權; 17 tháng 4 năm 898 – 14 tháng 2 năm 944),
còn được biết đến với tên gọi Tiền Ngô Vương (前吳王) là vị vua đầu
tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam.
lên ngôi, đóng đô ở Cổ Loa, lập Dương Như Ngọc làm
Vương hậu
Vương hậu (chữ Hán: 王后; Hangul: 왕후Wanghu; tiếng Anh: Queen
Consort) là một Vương tước thời phong kiến của một số quốc gia
phương Đông như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và các quốc gia
châu Âu.
.
Nhà Ngô (
chữ Nôm
Chữ Nôm (𡨸喃), còn được gọi là Quốc âm (國音)[a] là loại
văn tự ngữ tố - âm tiết dùng để viết tiếng Việt. Đây là bộ chữ được
người Việt tạo ra dựa trên chữ Hán, các bộ thủ, âm đọc và nghĩa từ
vựng trong tiếng Việt.
: 茹吳,
chữ Hán
Chữ Hán, còn gọi là Hán tự, Hán văn, chữ Nho, là loại
văn tự ngữ tố– âm tiết ra đời ở Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ hai
trước Công Nguyên. Ngôn ngữ đầu tiên được viết bằng chữ Hán là
tiếng Hán thượng cổ, một ngôn ngữ cổ đã tuyệt diệt. Tiếng Hán
thượng cổ viết bằng chữ Hán thường.
: 吳朝,
Hán Việt
Từ Hán Việt là những từ và ngữ tố tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Hán
và những từ tiếng Việt được người nói tiếng Việt tạo ra bằng cách
ghép các từ và/hoặc ngữ tố tiếng Việt gốc Hán lại với nhau. Từ Hán
Việt là một bộ phận không nhỏ của tiếng Việt, có vai trò quan trọng
và không thể tách rời hay xóa bỏ khỏi tiếng Việt.
: Ngô triều) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, truyền
được hai đời nhưng có tới ba vị vua, kéo dài từ năm 939 đến năm 965.
Các lực lượng tồn tại dai dẳng ở địa phương luôn có khuynh hướng chia
nhỏ lãnh thổ. Ngô Quyền đã phải mất 6 năm tại ngôi để đánh bại các cuộc
nổi dậy của các sứ quân; và qua đời quá sớm vào năm 944, khi ấy nền hành
chính chưa thống nhất, triều đình chưa được tổ chức xong; khắp nơi trong
nước các tướng lĩnh nổi dậy và giao chiến với nhau dẫn đến việc thành
lập 12 sứ quân. Đất nước bị xâu xé, dẫn đến sự sụp đỗ của nhà Ngô.
2. Nhà Đinh (968–980)
Hình 2: Sơ đồ kinh đô Hoa Lư
Nhà Đinh (
chữ Nôm
Chữ Nôm (𡨸喃), còn được gọi là Quốc âm (國音)[a] là loại
văn tự ngữ tố - âm tiết dùng để viết tiếng Việt. Đây là bộ chữ được
người Việt tạo ra dựa trên chữ Hán, các bộ thủ, âm đọc và nghĩa từ
vựng trong tiếng Việt.
: 茹丁,
chữ Hán
Chữ Hán, còn gọi là Hán tự, Hán văn, chữ Nho, là loại
văn tự ngữ tố– âm tiết ra đời ở Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ hai
trước Công Nguyên. Ngôn ngữ đầu tiên được viết bằng chữ Hán là
tiếng Hán thượng cổ, một ngôn ngữ cổ đã tuyệt diệt. Tiếng Hán
thượng cổ viết bằng chữ Hán thường.
: 丁朝,
Hán Việt
Từ Hán Việt là những từ và ngữ tố tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Hán
và những từ tiếng Việt được người nói tiếng Việt tạo ra bằng cách
ghép các từ và/hoặc ngữ tố tiếng Việt gốc Hán lại với nhau. Từ Hán
Việt là một bộ phận không nhỏ của tiếng Việt, có vai trò quan trọng
và không thể tách rời hay xóa bỏ khỏi tiếng Việt.
: Đinh triều) là triều đại quân chủ phong kiến trong lịch sử Việt Nam
bắt đầu năm 968, sau khi
Đinh Bộ Lĩnh
Đinh Tiên Hoàng (chữ Hán: 丁先皇; 22 tháng 3 năm 924 - tháng 10 năm
979), tên húy là Đinh Bộ Lĩnh (丁部領), là vị hoàng đế sáng lập
triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam. Ông là
người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở
thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau thời Bắc thuộc.
dẹp xong loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước. Năm 968, ông lên ngôi
Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, tức là Đinh Tiên Hoàng,
đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt,
đóng đô ở Hoa Lư.
Ý nghĩa tên gọi
Quốc hiệu Đại Cồ Việt do vua
Đinh Tiên Hoàng đặt năm 968. Đại
Cồ Việt là quốc hiệu được dùng trong 8 đời vua của 3 triều
Đinh,
Lê,
Lý, với quãng thời gian dài 86
năm (968 - 1054). Đến năm Giáp Ngọ, niên hiệu
Long Thụy Thái Bình , vua
Lý Thánh Tông mới đặt lại quốc
hiệu là Đại Việt. Điều này có
nghĩa là khi dời đô từ Hoa Lư ra
Thăng Long, nước vẫn mang quốc
hiệu là Đại Cồ Việt.
Ý nghĩa quốc hiệu Đại Cồ Việt:
"Đại" (大) theo nghĩa chữ Hán là lớn, "Cồ" (瞿) là âm Hán-Việt cổ của từ
Cự hay Cừ (巨) cũng là lớn. Đinh Tiên Hoàng muốn ghép hai chữ để khẳng
định nước Việt là nước lớn.
3. Nhà Tiền Lê (980–1009)
Hình 3: Dương Thái hậu trao hoàng bào cho Lê Hoàn (tranh vẽ minh họa)
Nhà Tiền Lê (
chữ Nôm
Chữ Nôm (𡨸喃), còn được gọi là Quốc âm (國音)[a] là loại
văn tự ngữ tố - âm tiết dùng để viết tiếng Việt. Đây là bộ chữ được
người Việt tạo ra dựa trên chữ Hán, các bộ thủ, âm đọc và nghĩa từ
vựng trong tiếng Việt.
: 茹黎,
chữ Hán
Chữ Hán, còn gọi là Hán tự, Hán văn, chữ Nho, là loại
văn tự ngữ tố– âm tiết ra đời ở Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ hai
trước Công Nguyên. Ngôn ngữ đầu tiên được viết bằng chữ Hán là
tiếng Hán thượng cổ, một ngôn ngữ cổ đã tuyệt diệt. Tiếng Hán
thượng cổ viết bằng chữ Hán thường.
: 黎朝,
Hán Việt
Từ Hán Việt là những từ và ngữ tố tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Hán
và những từ tiếng Việt được người nói tiếng Việt tạo ra bằng cách
ghép các từ và/hoặc ngữ tố tiếng Việt gốc Hán lại với nhau. Từ Hán
Việt là một bộ phận không nhỏ của tiếng Việt, có vai trò quan trọng
và không thể tách rời hay xóa bỏ khỏi tiếng Việt.
: Lê triều), là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu
khi Đinh Phế Đế nhường ngôi cho
Lê Hoàn
Lê Đại Hành (10 tháng 8 năm 941 - 18 tháng 4 năm 1005) tên húy: Lê
Hoàn . Ông là vị Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê nước Đại Cồ Việt, trị
vì nước Đại Cồ Việt trong 24 năm. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu
biểu của dân tộc Việt Nam.
vào năm 980.
Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn tiến
hành chuẩn bị chống lại nhà
Tống trong Chiến tranh Tống–Việt
năm 981, với chiến thắng thuộc về Lê Hoàn. Sau chiến thắng, Lê Hoàn liền
sai sứ sang nhà Tống cống các đồ thổ sản và dâng biểu tạ lỗi nhằm giữ
mối quan hệ hòa hảo không đáng đánh mất giữa Việt và Tống, đồng thời
cũng thảo phạt Chiêm Thành đang
rất mạnh ở phía Nam.
Trong khi cai trị, ông đã cho xây dựng nhiều công trình, đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp để chấn hưng nền kinh tế. Ông là vị
Hoàng đế trong lịch sử mở đầu cho
lễ tịch điền
Lễ cày tịch điền là một lễ hội trước đây tại một số quốc gia như
Việt Nam và Trung Quốc, do nhà vua đích thân khai mạc. Ngày cử hành
thường là một ngày vào trung tuần Tháng Giêng âm lịch
nhằm khuyến khích sản xuất nông nghiệp dưới chế độ phong kiến Việt Nam.
Mở đầu cho một lễ nghi trọng đại mà các vương triều sau tiếp tục noi
theo để khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp.
4. Nhà Lý (1009–1225)
Hình 4: Chiếu Dời Đô( chữ Hán)
Nhà Lý (chữ Nôm: 茹李,
chữ Hán: 李朝,
Hán Việt: Lý triều), đôi khi gọi
là nhà Hậu Lý (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là
một triều đại trong nền quân chủ Việt Nam. Triều đại này bắt đầu khi
Lí Công Uẩn
Lý Thái Tổ (chữ Hán: 李太祖, 8 tháng 3 năm 974 – 31 tháng 3 năm
1028) là hoàng đế sáng lập ra nhà Lý (hay còn gọi là Hậu Lý để phân
biệt với nhà Tiền Lý do Lý Nam Đế sáng lập) trong lịch sử Việt Nam,
trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.
lên ngôi vào tháng 10 âm lịch năm 1009 sau khi giành được quyền lực từ
tay nhà Tiền Lê. Triều đại này trải qua 9 vị hoàng đế và chấm dứt khi Lý
Chiêu Hoàng, lúc đó mới có 7 tuổi, bị ép thoái vị để nhường ngôi cho
chồng là Trần Cảnh vào năm 1225 – tổng cộng là 216 năm.
Thiên Đô Chiếu (chữ Hán:
遷都詔) tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại
sớm nhất ở thế kỷ 15 trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, bài văn này
được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển
kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ra Đại La.
Theo ý kiến của sử gia Trần Quốc Vượng, Chiếu dời đô đã khẳng định được
vai trò của kinh đô Thăng Long, là tác phẩm văn học khai sáng của nhà
Lý. Tuy nhiên, Chiếu dời đô chưa nêu bật được chủ nghĩa dân tộc và khát
vọng độc lập, hơn nữa ngôn ngữ sử dụng trong văn bản này mang đượm màu
sắc dị đoan, phong thủy.
Trong thời đại này, lần đầu tiên nhà Lý đã giữ vững được chính quyền một
cách lâu dài đến hơn 200 năm, khác với các vương triều cũ trước đó chỉ
tồn tại hơn vài chục năm. Vào năm 1054,
Lý Thánh Tông đã đổi quốc hiệu từ
Đại Cồ Việt (大瞿越) thành Đại Việt (大越), mở ra kỷ
nguyên Đại Việt rực rỡ nhất trong lịch sử Việt Nam.
5. Nhà Trần (1225–1400)
Hình 4: Thái sư Trần Thủ Độ
Nhà Trần (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, chữ Hán Việt: Trần triều) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu danh với những chiến công hiển hách trong lịch sử Việt Nam. Triều đại này khởi đầu khi Trần Cảnh lên ngôi vào năm 1226 sau khi được vợ là Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi. Những năm đầu tiên, Trần Cảnh còn nhỏ tuổi, toàn bộ quyền hành của nhà Trần đều do một tông thất vai chú của Trần Cảnh là Trần Thủ Độ nắm quyền, chính Trần Thủ Độ đã âm thầm ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho cháu mình.
Kháng chiến chống quân Mông-Nguyên
Lần 1 (1258)
Nguyên nhân: Quân Mông Cổ muốn mượn đường Đại Việt để đánh Nam Tống
(Trung Quốc). Khi Đại Việt không chấp thuận, chúng tiến hành xâm
lược.
Diễn biến chính:
Tháng 1/1258, quân Mông Cổ (do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy) tấn công qua
đường Lào Cai.
Quân Trần (vua Trần Thái Tông) chủ động rút lui chiến lược để bảo toàn
lực lượng
Sau khi quân Mông tiến sâu và rơi vào thế bị động, quân Trần phản công ở
Đông Bộ Đầu (Hà Nội).
Quân Mông Cổ thất bại, phải rút lui khỏi Đại Việt.
Lần 2 (1285) Nguyên nhân: Nhà Nguyên sau khi thống nhất Trung
Quốc, quyết tâm xâm lược Đại Việt để mở rộng lãnh thổ.
Diễn biến chính:
Cuối năm 1284, quân Nguyên (do Thoát Hoan, con vua Nguyên, chỉ huy) tiến đánh Đại Việt bằng 2 đường:
- Thoát Hoan theo đường Lạng Sơn.
- Ô Mã Nhi, Toa Đô từ Champa đánh ra phía Nam.
Hình 5: Trần Hưng Đạo
Quân Trần (Trần Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn) thực hiện kế rút lui chiến lược, bảo toàn lực lượng.
Hội nghị Diên Hồng: Triều đình bàn kế đánh giặc, quyết định đánh đến
cùng.
Sau thời gian củng cố, quân Trần phản công dữ dội:
Thắng lớn ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương.
Tiêu diệt Toa Đô ở Tây Kết.
Thoát Hoan tháo chạy, quân Nguyên bị quét sạch khỏi nước ta.
Lần 3 (1287–1288) Nguyên nhân: Nhà Nguyên chưa từ bỏ tham vọng
thôn tính Đại Việt, tiếp tục tổ chức xâm lược.
Diễn biến chính:
Thoát Hoan lại đem đại quân xâm lược theo đường Lạng Sơn.
Quân Trần tiếp tục rút lui chiến lược, đồng thời dùng chiến thuật vườn
không nhà trống, làm cho quân Nguyên thiếu lương thực.
Đặc biệt:
Trận Vân Đồn: Quân Trần phá tan kho lương của quân Nguyên.
Trận Bạch Đằng (1288): Trần Hưng Đạo bố trí cọc ngầm trên sông, tiêu
diệt phần lớn thủy quân địch, bắt sống nhiều tướng giặc như Ô Mã Nhi.
Quân Nguyên đại bại, Thoát Hoan trốn về nước.
Hình 6: Thành nhà Hồ (Thanh Hóa)
6. Nhà Hồ (1400–1407)
Nhà Hồ (chữ Nôm: 茹胡, chữ Hán: 胡朝, Hán Việt: Hồ triều) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Hồ Quý Ly lên ngôi năm 1400 sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Trần và chấm dứt khi Hồ Hán Thương bị quân Minh bắt vào năm 1407 – tổng cộng là 7 năm. Quốc hiệu Đại Việt đã đổi thành Đại Ngu năm 1400.
7. Khởi nghĩa Lam Sơn – Nhà Hậu Lê (1428–1789)
Khởi nghĩa Lam Sơn
Nguyên nhân:
Hình 7: Lê Lợi (ảnh vẽ)
Diễn biến chính:
Nhà Hậu Lê
Nhà Hậu Lê(chữ Nôm:
茹後黎, chữ Hán: 後黎朝,
Hán Việt : Hậu Lê triều;
(1428-1789)) là một triều đại phong kiến Việt Nam tồn tại sau thời Bắc
thuộc lần 4 và đồng thời với nhà Mạc, nhà Tây Sơn trong một thời gian,
trước Nhà Nguyễn
Nhà Hậu Lê do Lê Lợi lập ra. Nó
được phân biệt với nhà Tiền Lê (980–1009) do Lê Hoàn lập ra cuối thế kỷ
X.
Nhà Hậu Lê gồm 2 giai đoạn:
Giai đoạn Lê sơ (黎初; 1428-1528): kéo dài 99 năm, bắt đầu từ khi khởi
nghĩa Lam Sơn thắng lợi đến khi Mạc Đăng Dung phế bỏ vua Lê Cung Hoàng
lên ngôi vua, lập ra nhà Mạc.
Giai đoạn Lê Trung Hưng (茹黎中興, 1533–1789): khởi đầu khi tướng Nguyễn
Kim tôn phò Lê Duy Ninh, một người thuộc dòng dõi nhà Lê để khởi binh
chống lại nhà Mạc đến khi Lê Chiêu Thống bỏ nước sang cầu viện Nhà Thanh
đánh Tây Sơn. Nguyễn Huệ, một lãnh đạo của phong trào Tây Sơn, sau đó
lên ngôi vua, chấm dứt giai đoạn Lê Trung Hưng và sự tồn tại của Nhà Hậu
Lê. Thời Lê Trung hưng tuy kéo dài, nhưng các Hoàng đế nhà Lê mất thực
quyền, chỉ tồn tại trên danh nghĩa.
8. Nhà Mạc (1527–1592)
Hình 8: Mạc Thái Tổ
Nhà Mạc ( chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã ép vua Lê Cung Hoàng nhà Hậu Lê nhường ngôi tháng 6 năm 1527 và chấm dứt khi vua Mạc Mậu Hợp lập con trai là Mạc Toàn lên ngôi, bị quân đội Lê-Trịnh do Trịnh Tùng chỉ huy đánh bại vào cuối năm 1592. Sau đó Mạc Toàn lên ngôi nhưng tại vị chỉ được 2 tháng, tổng cộng thời gian tồn tại chính thức của triều đại là gần 66 năm. Tuy nhiên, giai đoạn sau đó hậu duệ nhà Mạc như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan, Mạc Kính Vũ vẫn còn tiếp tục chống lại nhà Hậu Lê thời kỳ trung hưng đến tận năm 1677 tại khu vực Cao Bằng. Thời kỳ 1533–1592 trong lịch sử Việt Nam còn được gọi là thời kỳ Nam-Bắc triều, do chính quyền nhà Mạc chỉ thực sự có quyền lực từ địa phận Ninh Bình ngày nay trở ra, còn từ Thanh Hóa trở vào là thế lực lấy danh nghĩa gây dựng lại nhà Lê từ năm 1533.
9. Thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh (1627-1672)
Hình 9: Trịnh Nguyễn phân tranh
Ngôi vua nhà Lê Trung Hưng vốn do tướng Nguyễn Kim dựng lại.
Nguyễn Kim chết (1545), con rể là
Trịnh Kiểm nắm quyền, từ đó họ Trịnh đóng vai trò phụ chính. Con thứ
Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng, sau khi thấy anh cả là Nguyễn Uông bị
Trịnh Kiểm hại, bèn xin vào nam trấn thủ Thuận Hóa (1558) rồi
Quảng Nam (1570). Vì họ Trịnh phải tập trung vào cuộc chiến với nhà
Mạc phía bắc nên Nguyễn Hoàng được kiêm quản hai vùng đất rộng lớn.
Nhà Mạc bị diệt (1592), Trịnh Tùng bèn tính tới việc thanh trừng
Nguyễn Hoàng, nên triệu tập ra bắc nhân danh cùng dẹp dư đảng họ Mạc. Sau một số trận đánh chống họ Mạc,
Nguyễn Hoàng bỏ trốn về Nam (1600). Năm 1613, con Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên lên thay trấn thủ Thuận
– Quảng, bắt đầu thực hiện ý định ly khai.
Năm 1627, với lý do Nguyễn Phúc Nguyên có hành động chống đối, bỏ cống nạp nhiều năm, Trịnh Tráng nhân danh vua
Lê Thần Tông mang quân Nam tiến. Cuộc chiến giữa họ Trịnh và họ
Nguyễn bùng nổ. Họ Nguyễn cũng nhân danh "phù Lê" chống họ Trịnh lộng quyền lấn át quyền vua, chiêu binh
dựng lũy, đúc súng ống chống lại. Từ năm 1627 đến 1672, hai họ đánh nhau 7 lần, trong đó 6 lần họ Trịnh đánh
vào nam, 1 lần họ Nguyễn đánh ra bắc. Để có chính danh, các chúa Trịnh từng rước vua Lê đi thân chinh. Sau 7
lần xung đột bất phân thắng bại, hai họ ngưng chiến, lấy sông Gianh làm ranh giới. Phía bắc sông Gianh thuộc
chính quyền vua Lê-chúa Trịnh gọi là Đàng Ngoài, phía nam sông Gianh thuộc chúa Nguyễn gọi là Đàng Trong. Bề
ngoài, họ Nguyễn cũng tôn phù nhà Lê, nhưng trên thực tế đã biến lãnh thổ Đàng Trong thành một vùng cai trị
độc lập, có thể chế riêng về mọi mặt.
Hình 10: Ba anh em nhà Tây Sơn
10. Nhà Tây Sơn (1778–1802)
Nhà Tây Sơn (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / Tây Sơn triều) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập trong bối cảnh tranh chấp quyền lực cuối thời Lê Trung hưng (1533–1789). Theo cách gọi của phần lớn sử gia, nhất là các sử gia hiện đại tại Việt Nam thì "nhà Tây Sơn" được dùng để gọi triều đại của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ để phân biệt với nhà Nguyễn của Nguyễn Ánh (vì cùng họ Nguyễn). Ngoài ra, "Tây Sơn" cũng chỉ các lãnh tụ và quân đội khởi nghĩa xuất thân từ ấp Tây Sơn; cũng được dùng làm tên cuộc chiến của Tây Sơn.
11. Nhà Nguyễn (1802-1945)
Nhà Nguyễn(chữ Nôm: 茹阮,
chữ Hán: 阮朝; Hán Việt: Nguyễn
triều) là
triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được
thành lập sau khi Nguyễn Ánh (Gia Long) lên ngôi hoàng đế năm 1802 và
kết thúc khi Bảo Đại thoái vị vào năm 1945, tổng cộng là 143 năm.
Triều Nguyễn là một triều đại đánh dấu nhiều thăng trầm trong lịch
sử Việt Nam, đặc biệt là cuộc xâm lược của người Pháp giữa thế kỷ 19.
Hình 11: Vua Gia Long
Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ cùng vua Thái Đức mang quân thủy bộ Nam tiến. Tây Sơn đụng trận dữ dội ở sông Ngã Bảy, cửa Cần Giờ với quân đội nhà Nguyễn do chính Nguyễn Ánh chỉ huy. Dù lực lượng thuyền của Quân đội Tây Sơn yếu hơn, nhưng họ đã phá tan quân Nguyễn, buộc Manuel tự sát, tuy vậy cũng thiệt hại khá nhiều binh lực. Nguyễn Ánh bỏ chạy về Ba Giồng, rồi có khi trốn sang tận rừng Romdoul, Chân Lạp. Vua Thái Đức khi tấn công Nam Bộ tại Cù lao Phố đã gặp phải sự chống đối mạnh của người Hoa ủng hộ Nguyễn Ánh tại đây khiến cho một thân tướng là Đô đốc Phạm Ngạn tử trận, binh lính thương vong nhiều, nên ông rất đau đớn rồi nổi giận ra lệnh tàn sát người Hoa ở Gia Định để trả thù. Việc này đã cản chân quân đội nhà Tây Sơn trong việc truy bắt Nguyễn Ánh, khiến cho Nguyễn Ánh có cơ hội quay trở về Giồng Lữ, một đô đốc Tây Sơn là Nguyễn Học đem quân đuổi theo Ánh bị quân đội nhà Nguyễn bắt giết khiến cho Nguyễn Ánh có được 80 thuyền của quân đội nhà Tây Sơn. Nguyễn Ánh thấy vậy định kéo về chiếm lại Gia Định nhưng đụng Nguyễn Huệ dàn binh quay lưng ra sông đánh bại khiến Nguyễn Ánh phải chạy về Hậu Giang, Rạch Giá, Hà Tiên rồi theo thuyền nhỏ trốn ra Phú Quốc.